Bằng việc kiểm soát "vòi nước", Trung Quốc đang tạo ra sức mạnh đối với các nước láng giềng ở hạ nguồn sông Mê Kông cũng như Trung Á.
Giáo sư Brahma Chellaney từ Trung tâm Nghiên cứu Chính sách ở New Delhi, Ấn Độ ngày 16/3 bình luận trên Nikkei Asian Review, hoạt động bành trướng của Trung Quốc trên Biển Đông đang gây chú ý đáng kể bởi những tác động tiêu cực của nó đến trật tự hàng hải toàn cầu.
Tuy nhiên, hoạt động ồ ạt xây dựng các đập nước trên những dòng sông quốc tế phát tích từ Tây Tạng và Tân Cương để chiếm dụng tài nguyên nước quốc tế của Trung Quốc lâu nay đã không thu hút được mức độ chú ý cần thiết, tương ứng của dư luận. Mặc dù bóng ma của một cuộc chiến tranh nguồn nước đang thập thò, ngấp nghé khu vực.
Kiểm soát nguồn nước là vũ khí chính trị kiềm tỏa, sai khiến láng giềng
Hầu hết các dòng sông lớn ở châu Á bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng được "sáp nhập" vào Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ngay sau khi thành lập năm 1949. Một khu vực khác - Tân Cương, cũng là nơi phát tích của sông Irtysh và Ili chảy đến Kazakhstan và Nga.
Một đập thủy điện của TQ |
Phân tích của Giáo sư Brahma Chellaney cho người viết hiểu rõ hơn về tuyên bố của người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Lục Khảng hôm 15/3: "Người dân sống dọc theo sông Mekong - Lan Thương đều được nuôi dưỡng bởi cùng một dòng sông. Đương nhiên là bạn bè cần giúp đỡ nhau khi cần thiết".
Trung Quốc nói rằng họ bắt đầu xả nước từ con đập Cảnh Hồng ở tỉnh Vân Nam từ 15/3 đến 10/4 để giúp các nước hạ du sông Mê Kông như Campuchia, Lào, Myanmar, Thái Lan và Việt Nam khắc phục tình trạng hạn hán nghiêm trọng.
Ông Lục Khảng khẳng định, tình hình hạn hán trong khu vực hiện nay là do thiên tai chứ không phải con người. Nói cách khác, 6 đập Trung Quốc đã xây và 14 đập dự kiến sắp xây để chặn dòng Mê Kông là vô can.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Anh Tuấn - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu biến đổi khí hậu thuộc Đại học Cần Thơ ngày 16/3 được báo Dân Việt dẫn lời cho biết, Việt Nam yêu cầu Trung Quốc xả nước từ đập Cảnh Hồng với lưu lượng 2.300 mét khối / giây, xả liên tục theo ngày.
Nhưng thực tế hồ chứa thủy điện Cảnh Hồng có dung tích hoạt động tối đa 249 triệu mét khối nước (số liệu ông Tuấn dẫn theo Wikipedia, còn theo Giáo sư Trần Đình Long - Phó Chủ tịch Hội Điện lực Việt Nam, đập Cảnh Hồng của Trung Quốc có chiều cao thân đập là 108m; chiều dài đập là 704,5m. Tổng dung tích hồ chứa của Thuỷ điện Cảnh Hồng là 1,139 tỷ mét khối nước, theo báo Dân Việt 16/3/2016).
Nếu xả theo yêu cầu của Việt Nam là tối thiểu 2300 mét khối/giây thì chỉ sau 30 giờ là cạn hồ, ông Lê Anh Tuấn nhận định.
Mặt khác, sống Mê Kông chạy qua Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia với hàng ngàn km dọc đường là những cánh đồng hạn cháy thì dù có xả nước, về được vùng Đồng bằng sông Cửu Long cũng chẳng đáng là bao.
Còn theo Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn kiêm Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy lợi Việt Nam, ông Hoàng Văn Thắng được đài VOA Tiếng Việt ngày 16/3 dẫn lời cho biết:
“Nước từ đập thủy điện Cảnh Hồng về tới vùng đồng bằng sông Cửu Long thời gian rất dài, trên nửa tháng. Cho nên chúng tôi cũng đang chờ đợi. Chúng tôi cũng không đề nghị họ phải xả liên tục. Chúng tôi chỉ đề nghị họ xả 3 đợt thôi.
Như vậy, nếu họ xả được trong vòng 7, 8 ngày cũng là quý đối với hạ lưu sông Mekong, đồng bằng sông Cửu Long rồi. Nếu có dòng nước đẩy mạnh, chúng tôi sẽ cùng các địa phương tìm các giải pháp lấy nước, trữ nước để phục vụ nông nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long”.
Giáo sư Brahma Chellaney nhận định, bằng việc xây dựng một cách lặng lẽ và mờ ám các đập nước lớn sát biên giới trên các dòng sông xuyên quốc gia, Bắc Kinh đang tạo ra một thứ vũ khí chính trị, một tình thế không thể đảo ngược với các nước láng giềng nằm ở hạ du các con sông bắt nguồn từ Tây Tạng, Tân Cương.
Việc kiểm soát "vòi nước" cung cấp nước ngọt cho các quốc gia láng giềng đã trở thành một đòn bẩy, một thứ công cụ, vũ khí chính trị để Trung Quốc gây tác động, ảnh hưởng đến hành vi của các quốc gia này, bao gồm cả việc ngăn chặn các nước thách thức các lợi ích ngày càng lớn của Trung Quốc trong khu vực.
Bằng việc kiểm soát "vòi nước", Trung Quốc đang tạo ra sức mạnh đối với các nước láng giềng ở hạ nguồn sông Mê Kông cũng như Trung Á. Các quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề từ việc làm này chỉ còn biết kêu gọi Trung Quốc hợp tác cùng khai thác nguồn nước. Thậm chí có quốc gia còn phải "thận trọng" khi nhắc đến các vấn đề lên án việc làm sai trái của Trung Quốc.
Băm nát các dòng sông quốc tế, các nước "thân thiện" với Trung Quốc cũng nằm trong vòng kiềm tỏa
Trên hệ thống sông Mê Kông - dòng chảy cung cấp nước ngọt huyết mạch của Đông Nam Á, Trung Quốc đã xây dựng 6 con đập và đang có kế hoạch xây thêm 14 con đập nữa.
Bắc Kinh đã thay đổi trọng tâm xây dựng hệ thống đập thủy điện từ những con sông nội địa sang những dòng sông xuyên quốc gia, tập trung ở khu vực biên giới với các nước.
Sau khi đã xây dựng bão hòa các con đập ở vùng đồng bằng phía Bắc Trung Quốc, trung tâm Hoa Hạ, ngày nay địa bàn trọng điểm xây dựng hệ thống đập thủy điện được Trung Quốc di dời sang khu cao nguyên Tây Tạng, Tân Cương, nơi khởi phát của hàng loạt dòng sông lớn xuyên quốc gia.
Hầu hết các đập nước lớn ở châu Á là của Trung Quốc. Bắc Kinh tự hào có hơn một nửa trong số 50 ngàn con đập lớn nhất thế giới. Sự bùng nổ các đập thủy điện ở Trung Quốc vẫn chưa có dấu hiệu dừng lại. Ngược lại, Trung Quốc đang tập trung xây dựng các đập nước sát biên giới với các nước láng giềng.
Quốc gia có dân số thứ 2 thế giới xếp sau Trung Quốc là Ấn Độ cũng đang phải chịu cảnh bị Trung Quốc "khóa vòi" cung cấp nước ngọt trên các dòng sông.
Đập Tạng Mộc mà Trung Quốc xây ở Tây Tạng trên con sông Brahmaputra chảy sang Ấn Độ với chi phí 1,6 tỉ USD đang chạy đua với thời gian để hoàn thành, trong khi một loạt đập bổ sung trên sông Yarlung Tsangpo cao nhất thế giới đang diễn ra.
Tình hình thiếu nước ngọt ở Ấn Độ tồi tệ hơn nhiều so với Trung Quốc, nguồn nước tái tạo nội bộ của Trung Quốc khoảng 2813 tỉ mét khối mỗi năm, nhiều gấp đôi Ấn Độ. Đã vậy, Bắc Kinh vẫn đang tiếp tục chặn dòng, đắp đập ngăn sông.
Mối quan tâm của các nước hạ nguồn các dòng sông quốc tế bắt nguồn từ Tây Tạng và Tân Cương về việc Bắc Kinh đang tìm cách biến nước thành vũ khí chính trị ngày càng gia tăng. Bắc Kinh không thèm đếm xỉa đến lợi ích của các quốc gia được xem là thân thiện với họ, từ Kazakhstan cho đến Thái Lan, Campuchia.
Để mang lại lợi ích kinh tế xã hội lâu dài và đối phó với hạn hán hay mất cân bằng nguồn nước, một con sông có thể được ngăn đập một cách hợp lý với tính toán chu đáo đến môi trường sinh thái của cả dòng sông, Giáo sư Brahma Chellaney bình luận.
Nhưng những gì Trung Quốc đang làm là đắp đập và đắp đập, ngăn sông và ngăn sông, chặn dòng và chặn dòng, khiến các dòng sông xuyên quốc gia như Mê Kông hay Salween nhìn từ bản đồ giống như một chuỗi hạt, mỗi hạt là một đập thủy điện.
Những con đập này đang làm thay đổi rất lớn chất lượng nước và dòng chảy, làm giảm đáng kể lượng phù sa màu mỡ xuống hạ nguồn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hàng triệu nông dân, ngư dân sinh sống nhờ vào những dòng sông này (trong đó có nông dân Đồng bằng sông Cửu Long).
Các vùng đồng bằng châu thổ ở châu Á đang bị tổn thương nặng nề bởi biến đổi khí hậu và đe dọa bởi nước biển dâng, nay càng khát cháy bởi các đập thủy điện mà Trung Quốc và một số quốc gia ở thượng nguồn, trung du các dòng sông quốc tế đang đua nhau xây dựng, theo Giáo sư Brahma Chellaney.
Hãy tự cứu lấy mình thay vì trông chờ, hy vọng vào Trung Quốc
Giáo sư Brahma Chellaney tin rằng, châu Á cần nỗ lực cùng nhau kêu gọi Trung Quốc vào bàn đàm phán, thể chế hóa việc quản lý sử dụng nguồn nước ngọt trên các dòng sông quốc tế. Nếu không có Trung Quốc trên bàn đàm phán, việc hợp tác bảo vệ nguồn nước và hệ sinh thái trên các dòng sông quan trọng ở châu Á là điều không thể.
Người viết cho rằng phân tích và đề xuất của Giáo sư Brahma Chellaney là hợp lý, cần thiết về lâu dài nhưng phải làm ngay và nỗ lực đấu tranh không mệt mỏi, kết hợp chặt chẽ các công cụ ngoại giao - chính trị - pháp lý và đoàn kết chặt chẽ giữa các nước bị ảnh hưởng.
Nhưng từ nay đến khi các giải pháp này phát huy hiệu quả, chưa biết sẽ kéo dài trong bao lâu bởi sự khác biệt về lợi ích ngay giữa chính các quốc gia cùng chung một dòng sông. Trong lúc đó Việt Nam nằm ở cuối nguồn sông Mê Kông, không thể chỉ trông chờ vào giải pháp trung - dài hạn này.
Thiết nghĩ, các giải pháp tự cứu lấy mình trước khủng hoảng kép do thiên tai hạn hán bởi El Nino gây ra, hay do "nhân họa" bởi hệ thống đập thủy điện mà Trung Quốc và một số nước tạo ra là cấp bách và quan trọng hơn cả, Việt Nam chúng ta phải tự tìm cách cứu mình trước.
Nếu theo phân tích của Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Anh Tuấn nêu trên, việc trông chờ Trung Quốc "xả nước cứu hạn" cho Đồng bằng sông Cửu Long dường như có phần ảo tưởng. Đó là chưa nói tới khả năng Trung Quốc sẽ sử dụng vũ khí nước để mặc cả, đánh đổi với các nước như phân tích của Giáo sư Brahma Chellaney.
Người viết thiết nghĩ, chống lại El Nino, hạn hán, xâm nhập mặn hay thiên tai nói chung là điều quá sức con người và không thiết thực, thay vào đó cần học cách thích nghi và sống chung với nó.
Hãy học hỏi người Israel trong việc sử dụng nguồn nước ngọt như thế nào để tối ưu hóa hiệu quả để phát triển nông nghiệp bền vững, học tập tinh thần người Nhật Bản sống hài hòa với thiên nhiên, tồn tại và phát triển giữa thiên tai khắc nghiệt.
Điều đầu tiên phải thay đổi là tư duy, sau đó mới đến giải pháp.
Khi xâm nhập mặn và hạn hán đã bao phủ Đồng bằng sông Cửu Long, trồng lúa nước là điều không thể thì cần nghĩ ngay đến việc khai thác cây trồng, vật nuôi khác chịu hạn và chịu mặn thày vì loay hoay tìm cách "chống hạn, chống mặn" như hiện nay.
Tư duy ấy đã giúp chính phủ Thái Lan hình thành chính sách nông nghiệp mới, thay đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi cách đây đã cả chục năm và đang áp dụng với nhiều bài học có giá trị, thiết nghĩ Việt Nam chúng ta nên tham khảo, điều này được tác giả Ngọc Việt phân tích trên Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam.
Theo Giaoduc