Việt Nam - Từ Quân chủ tới Dân chủ
Ai là người đầu tiên phổ biến cái tên Việt Nam vào đầu thế kỷ XX? Trả lời câu hỏi thoạt nhìn có vẻ vô-thưởng-vô-phạt này sẽ giúp ta nhận thức rõ hơn về vai trò của Phan Bội Châu và Quang phục Hội.
Quốc hiệu "Việt Nam" nguyên đã có từ đầu thời vua Gia Long, nhưng trên thực tế không mấy khi được sử dụng. Sử sách chép là vua Gia Long lúc đầu khi mới lên ngôi (1802) muốn đặc quốc hiệu là Nam Việt, nhưng vua Gia Khánh nhà Thanh không chấp thuận, lý do là quốc hiệu này khơi lại chuyện Triệu Đà và chính quyền cát cứ ở nước Nam Việt đời Hán ngày trước. Thanh triều chỉ chấp thuận sai sứ sang phong vương sau đó hai năm (1804) khi quốc hiệu Nam Việt đã được đổi ngược lại thành Việt Nam [6]. Bước sang thế kỷ XX, trong khi người nước ngoài đều dùng tên "An Nam" để chỉ nước ta, theo thiển ý của chúng tôi, Phan Bội Châu là người đầu tiên đã phổ biến cái tên Việt Nam ngay từ khi mới sang Nhật Bản. Bằng cớ là Phan đã dùng tên Việt Nam trong các trước tác viết trong thời kỳ Đông Du: Việt Nam vong quốc sử (1905), Tân Việt Nam (1906), Việt Nam thảm trạng (1907?), Việt Nam quốc sử khảo (1908). Ngoài ra, sau khi giải tán Duy Tân Hội, như đã nói ở trên, Phan cùng đồng chí cũng đã dùng tên Việt Nam (thay vì An Nam hay các tên khác) khi đặt tên Việt Nam Quang phục Hội vào năm 1912.
Ai là người đầu tiên phổ biến cái tên Việt Nam vào đầu thế kỷ XX? |
Tôn chỉ "độc nhất" của Quang phục Hội là "khôi phục nền độc lập của Việt Nam" và thành lập một nước "cộng hòa dân quốc". Nói một cách khác, với sự thành lập của Quang phục Hội, lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam chủ nghĩa quân chủ đã bị phủ nhận và chủ nghĩa dân chủ "được xác định". Dĩ nhiên Phan Bội Châu đã đóng vai trò quan trọng trong sự chuyển hướng đường lối của Quang phục Hội [7]. Cho dù việc thay đổi "ngọn cờ quân chủ" (mà Phan Bội Châu đã đề cao để chống Pháp lúc xuất dương) thành lá cờ dân chủ phần nhiều là do ảnh hưởng của Cách mạng Tân Hợi (1911) ở Trung Quốc, nhưng trong bối cảnh lịch sử nửa đầu thế kỷ XX ở Việt Nam, sự kiện này có ý nghĩa như một khúc nhạc dạo đầu báo hiệu sự cáo chung của chế độ quân chủ ở nước ta mà trên thực tế sẽ xảy ra trong quá trình ba, bốn mươi năm sau đó.
"Bạo động kịch liệt" và bế tắc
Khác hẳn với chủ trương ôn hòa của Phan Châu Trinh là duy tân để tự cường rồi mới dành độc lập; Phan Bội Châu chủ trương bạo động, một phần vì bản tính ("sinh bình tôi vốn ôm chủ nghĩa cấp khích" [8]) và một phần do áp lực của "bọn anh em trong phái cấp khích ở Nghệ Tĩnh... hối thúc tôi trong việc quân giới" [9].
Lật đổ chính quyền thuộc địa Pháp bằng phương tiện võ trang (quân sự), đối với Phan, là phương cách duy nhất để lấy lại độc lập cho Việt Nam. Tuy nhiên, Phan cho rằng người Việt tự mình không địch nổi người Pháp, do đó phải cậy vào một cường quốc khác. Sở dĩ Phan và các đồng chí trong Duy Tân Hội chọn Nhật Bản để cầu viện vì Nhật là nước "đồng văn đồng chủng" mà lại vừa mới thắng Nga. Sau khi bị nhà đương cuộc Nhật trục xuất khỏi Nhật, Phan chuyển hướng, muốn liên kết với các nước "đồng bệnh" - trước hết là Trung Quốc - chống lại "cường quyền". Tuy nhiên, suốt đời Phan không rời chủ nghĩa Liên Á (Asianism), tin rằng nếu không có sự giúp đỡ của các nước "đồng văn đồng chủng" như Trung Quốc, Nhật Bản... thì Việt Nam không thể nào lấy lại độc lập.
Nhận thức về quan hệ quốc tế của Phan vừa lỗi thời vừa rất chủ quan. Có thể nói một trong những lý do khiến Phan thất bại là vì mặc dầu đứng trong tư thế người lãnh đạo một phong trào chống Pháp, Phan không bao giờ có ý định tìm hiểu về người Pháp và nước Pháp. Theo phương châm ngày xưa "kẻ thù của địch là bạn ta", Phan ngỏ ý cầu viện một cách bừa bãi với các nước mà Phan coi là có quyền lợi xung đột với Pháp lúc bấy giờ: Đức, Nga, và đặc biệt là Trung Quốc và Nhật Bản. Phan cả tin và chủ quan về những "nước bạn", rồi với trạng thái tâm lý được diễn tả và châm biếm qua câu ca dao "Thương thì thương cả đường đi, ghét thì ghét cả tông chi họ hàng" (hoặc "Thương thì trái ấu cũng tròn, không thương trái bồ hòn cũng méo"), Phan tưởng rằng những "nước bạn" sẽ là những đồng minh muôn thuở, bất luận trong tình huống nào và vô hình trung cho rằng "Pháp là nước duy nhất có ý đồ xâm chiếm Việt Nam". Vì Phan hoạt động trong giai đoạn mà ý thức hệ (hệ tư tưởng) chính trị chưa chia phối hàng ngũ người Việt trong nước cũng như hải ngoại, nên mặc dầu những thuật ngữ Phan dùng có thể khác những thuật ngữ của các thế hệ sau, nhưng phải nói trạng thái tâm lý nói trên vẫn thể hiện đậm nét trong quan niệm đối ngoại của Việt Nam ít ra mãi cho đến gần đây.
Chủ trương bạo động của Phan Bội Châu tùy thời điểm có mức độ khác nhau. Chẳng hạn, sau khi sang Nhật để xin viện trợ quân sự chống lại Pháp, Phan gặp Lương Khải Siêu, và sau khi nghe lời khuyên chí tình của họ Lương, Phan mới chuyển hướng sang việc gửi thanh niên sang Nhật du học. Qua bút đàm, Lương khuyên Phan: "Quý quốc chớ lo không có ngày độc lập, mà chỉ nên lo quốc dân không có đủ tư cách độc lập... Thực lực của quý quốc là dân trí, dân khí và nhân tài". Mặc dầu thời kỳ Đông Du là khoảng thời gian mà chính Phan xem là "đắc ý" nhất trong đời, Phan vẫn còn vương vấn với khuynh hướng "bạo động" nên cũng không hết lòng tin tưởng vào vai trò của giáo dục. Phan mượn câu nói của Mã-Chí-Nê (Mazzini) làm chủ thuyết của mình: "Giáo dục dữ bạo động đồng thời tịnh hành" (Giáo dục và bạo động cùng tiến hành song song) [10]. Sau khi bị trục xuất khỏi Nhật (1909), bôn ba sang Xiêm, rồi cuối cùng trở về Quảng Đông thành lập Quang phục Hội (1912), Phan chủ trương "bạo động kịch liệt" nhằm "tìm cái sống trong muôn vạn cái chết" và những mong bạo động sẽ là "môi giới để cải lương giáo dục"!
Trái hẳn với Phan Bội Châu, châm ngôn của Phan Châu Trinh là "Vọng ngoại tắc ngu, bạo động tắc tử" (Không nên cậy vào nước ngoài, cậy vào nước ngoài là ngu; không nên bạo động, bạo động là chết) và "ỷ Pháp cầu tiến bộ" mà trên thực tế có nghĩa là phải tạm thời chấp nhận chính quyền thuộc địa nhằm mở mang dân trí và cải cách chế độ cai trị của người Pháp, rồi từng bước phục hồi nền độc lập quốc gia. Khi bị tù ở Côn Đảo, Phan Châu Trinh đã từng nói: "Chưa có tư cách quốc dân độc lập, dầu có nhờ cậy sức nước ngoài chỉ diễn cái trò 'đổi chủ làm đầy tớ lần thứ hai', không ích gì... mình không tự lập, ai cũng là kẻ cừu của mình, Triều Tiên, Đài Loan là cái gương rõ ràng, người Nhật chắc gì hơn người Pháp" [11].
Phan Châu Trinh là nhà sĩ phu đầu tiên hô hào dân quyền ở nước ta [12]. Ông chống bạo động, dấy phong trào duy tân "chấn dân khí, khai dân trí, hậu dân sinh" và chủ trương "tự lực khai hóa" không phải vì ươn hèn sợ hãi, mà bở vì ông thấy dân trí nước ta còn quá thấp. Theo ông, trong tình trạng như vậy thì dầu có giành được độc lập "cũng không phải là điều hành phúc cho dân". Ông là người quả cảm, có khí phách, không sợ hiềm nghi hay gièm pha, dám đưa ra một chủ thuyết khác hầu hết mọi người đương thời. Phan Tây Hồ là một nhà cách mạng theo đúng nghĩa của nó.
Vì Phan Bội Châu theo chủ thuyết bạo động nên không phải ngẫu nhiên mà phần lớn những sinh viên du học ở Nhật và Trung Quốc vào đầu thế kỷ (dưới ảnh hưởng của Phan) đã học những trường quân sự, và đại đa số những người này cuối cùng đã hy sinh trong những vụ bạo động, mưu toan ám sát người Pháp cùng những người Việt cộng tác với chính quyền thuộc địa, hay các binh biến lẻ tẻ. Than tiếc cho sự việc này, Phan Châu Trinh đã viết: "Phải chi dùng số người xuất dương đó phân tán trong nước, đem trí thức, trình độ cao đó khiến cho mười mấy triệu người trong nước cũng có trí thức cao lên để tranh dành với Pháp" [13]. Bởi vậy, trong lời tựa của tập tự truyện "Phan Bội Châu niên biểu" mà tác giả đã viết với sự cân nhắc và phản tỉnh sâu lắng trong tuổi già, Phan Bội Châu ghi: "Chân trời góc bể gần ba mươi năm, vì liên lụy với tôi mà kẻ chết người tù, họa tràn quận quốc, độc trôi đồng bào... Anh em chúng ta nếu xem cái gương thất bại trước mà gấp lo tìm cách cải lương, sẽ mở ra một lối thành công sau...". Phan Bội Châu khuyên đồng bào nên xem cuộc đời họat động của mình như một "chiếc xe đã bị lật đằng trước nhằm cảnh giác" (tiền xa phúc, hậu xa giới) mà mở lối thành công. Những lời này của Phan Bội Châu nên được xem như là những lời phản tính và nhắn nhủ chân thành của một nhà đại hào kiệt "có lòng thương nước" nhưng vô tình đã "không biết cái đạo thương nước". Bình luận về Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh đã có những nhận xét sắc bén và thẳng thừng như sau: "Ông Phan Bội Châu tư chất thông minh, chí khí rất to lớn, sớm có quan niệm quốc gia. Trong thời đại nước Việt Nam chuộng khoa cử, ông cũng là người có học thức lầm lạc (mậu vọng) những dụng công rất nhiều, lòng tự tin mãnh liệt, cho nên những ưu và khuyết điểm cùng tập quán của dân tộc Việt Nam đều ăn sâu vào não tủy ông ta. Cho nên có thể cho ông là người xứng đáng đại biểu cho tập tánh của người Việt Nam." Hoặc giả: "Ông là người lịch sử dân tộc trên hai ngàn năm, nào ưu điểm, nhược điểm đã hun đúc thành con người đó" [14].
Nền độc lập mà Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh cùng các sĩ phu khác vào đầu thế kỷ hằng mơ ước ngày nay đã về trong tay người Việt. Nhưng vấn đề dân chủ, dân trí, dân sinh mà Phan Chu Trinh hằng nhắc nhở từ đầu thế kỷ vẫn là những vấn đề hiện thực nóng bỏng của đất nước sau chiến tranh. Thực tâm giải quyết những vấn đề này sẽ mang lại sinh khí cho dân tộc, đất nước nhờ đó sẽ được hồi sinh.
Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh là hai nhân vật kiệt hiệt của đất nước, nhưng chỗ đứng của họ trong cuộc hành trình dân tộc trong 100 năm qua lại khác nhau như âm với dương. Mặc dầu chúng ta cần đánh giá vai trò thức tỉnh hồn nước và ý thức quốc gia quốc dân của Phan Bội Châu, nhưng đồng thời cần nhận thức rằng Sào Nam tiên sinh không phải là người đã đề xướng dân chủ, dân trí và dân sinh. Làm việc đó đã có tiếng nói hùng hồn của Phan Chu Trinh. Bởi vậy, khi đọc lại những lời Tây Hồ viết vào đầu thế kỷ, ta vẫn nghe sang sảng tựa hồ như tiên sinh đang đăng đàn diễn thuyết đâu đây.
Tháng 8-1999/chungta.vn